20 Bài Bản Tổ
Trang 1 trong tổng số 1 trang
20 Bài Bản Tổ
Hai mươi bài tổ gồm có:
BA NAM :
Nam Xuân
Nam Ai
Đảo Ngũ Cung
Bài Đảo Ngũ Cung còn gọi là Nam Đảo. (Tài liệu xưa là sách Cầm Ca Tân Điệu và Nhạc Cổ Điển Việt Nam chỉ gọi là Đảo Ngũ Cung mà thôi).
SÁU BẮC :
Lưu Thủy Trường
Phú Lục Chấn
Bình Bán Chấn
Cổ Bản Trường
Xuân Tình Chấn
Tây Thi Trường
Giới đờn ca tài tử thường chơi Cổ Bản Vắn và Tây Thi Vắn mà ít chơi hai bài Cổ Bản Trường và Tây Thi Trường.
BẢY BÀI ( TỨC BẢY BÀI NHẠC LỄ)
Xàng Xê
Ngũ Đối Thượng
Ngũ Đối Hạ
Long Ngâm
Long Đăng
Vạn Giá
Tiểu Khúc
BỐN OÁN
Tứ Đại Oán
Phụng Cầu
Giang Nam
Phụng Hoàng
Bài Giang Nam còn gọi là Giang Nam Cửu Khúc (vì có 9 lớp), bài Phụng Cầu còn gọi là Phụng Cầu Hoàng Duyên, bài Phụng Hoàng còn gọi là Phụng Hoàng Lai Nghi. (Tài liệu xưa là sách Cầm Ca Tân Điệu và Nhạc Cổ Điển Việt Nam chỉ gọi là Phụng Cầu, Phụng Hoàng mà thôi).
Hai mươi bài tổ này bao gồm đủ cả các âm điệu vui, buồn, thương, giận nên được nhạc giới miền Nam dùng làm căn bản cho nền cổ nhạc từ đó cho đến bây giờ. Vì sự đa dạng của 20 bài tổ nên ít có người đờn hoặc ca làu thông 20 thể điệu này. Vào năm 2007, nhạc sư Ba Tu đã độc tấu đờn kìm đầy đủ 20 bài, xin được giới thiệu sau đây.
BA NAM :
Nam Xuân
Nam Ai
Đảo Ngũ Cung
Bài Đảo Ngũ Cung còn gọi là Nam Đảo. (Tài liệu xưa là sách Cầm Ca Tân Điệu và Nhạc Cổ Điển Việt Nam chỉ gọi là Đảo Ngũ Cung mà thôi).
SÁU BẮC :
Lưu Thủy Trường
Phú Lục Chấn
Bình Bán Chấn
Cổ Bản Trường
Xuân Tình Chấn
Tây Thi Trường
Giới đờn ca tài tử thường chơi Cổ Bản Vắn và Tây Thi Vắn mà ít chơi hai bài Cổ Bản Trường và Tây Thi Trường.
BẢY BÀI ( TỨC BẢY BÀI NHẠC LỄ)
Xàng Xê
Ngũ Đối Thượng
Ngũ Đối Hạ
Long Ngâm
Long Đăng
Vạn Giá
Tiểu Khúc
BỐN OÁN
Tứ Đại Oán
Phụng Cầu
Giang Nam
Phụng Hoàng
Bài Giang Nam còn gọi là Giang Nam Cửu Khúc (vì có 9 lớp), bài Phụng Cầu còn gọi là Phụng Cầu Hoàng Duyên, bài Phụng Hoàng còn gọi là Phụng Hoàng Lai Nghi. (Tài liệu xưa là sách Cầm Ca Tân Điệu và Nhạc Cổ Điển Việt Nam chỉ gọi là Phụng Cầu, Phụng Hoàng mà thôi).
Hai mươi bài tổ này bao gồm đủ cả các âm điệu vui, buồn, thương, giận nên được nhạc giới miền Nam dùng làm căn bản cho nền cổ nhạc từ đó cho đến bây giờ. Vì sự đa dạng của 20 bài tổ nên ít có người đờn hoặc ca làu thông 20 thể điệu này. Vào năm 2007, nhạc sư Ba Tu đã độc tấu đờn kìm đầy đủ 20 bài, xin được giới thiệu sau đây.
Re: 20 Bài Bản Tổ
Nam Xuân: Điệu nhạc thanh thản lâng lâng, sảng khoái, nghiêm trang, nhẹ nhàng, có người cho là “tiên phong đạo cốt”. Bài này thường được dùng để mở đầu các chương trình đờn ca tài tử hoặc ca nhạc cải lương.
Nam Ai: Buồn ảo não, não nùng, bi thảm. Bài này có 8 lớp, cấu trúc cũng như Nam Xuân (cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lớp). Lớp 7 và 8 (hai lớp Mái) thường hay dùng nhất.
Đảo Ngũ Cung qua Song Cước: Tôn nghiêm, hùng tráng, gay gắt. Hai câu cuối được chuyển sang hơi Hò Ba âm điệu buồn, để chấm dứt, gọi là “song cước”.
Nam Ai: Buồn ảo não, não nùng, bi thảm. Bài này có 8 lớp, cấu trúc cũng như Nam Xuân (cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lớp). Lớp 7 và 8 (hai lớp Mái) thường hay dùng nhất.
Đảo Ngũ Cung qua Song Cước: Tôn nghiêm, hùng tráng, gay gắt. Hai câu cuối được chuyển sang hơi Hò Ba âm điệu buồn, để chấm dứt, gọi là “song cước”.
Re: 20 Bài Bản Tổ
Sáu Bắc :
Lưu Thủy Trường: Điệu nhạc nhàn hạ, khoan thai, phù hợp với cảnh trí thanh nhàn, non xanh nước biếc, cỏ hoa chim chóc. Lưu Thủy Trường là do Lưu Thủy Đoản phát triển, kéo dài ra. Một câu của “đoản” bằng hai câu của “trường”. Bài này có 4 lớp, 32 câu (8, 6, 12, 6).
Phú Lục Chấn: Sôi nổi, rộn rã, khẩn trương, khác với bài Lưu Thủy Trường có tính thiên nhiên. Bài này có xuất xứ từ bài Phú Lục ở Huế. Khi mới vào Nam Bộ được cải lương hóa thành bài Phú Lục Vắn (17 câu, nhịp 1), sau phát triển thành bài Phúc Lục của nhạc tài tử (34 câu nhịp 4). Bài này rất nghiêm chỉnh cân đối, câu đối câu, nhịp đối nhịp, có 4 lớp (8, 8, 8, 10).
Bình Bán Chấn: Phát triển từ bài Bình Bán, đến Bình Bán Vắn, rồi đến bài Bình Bán Chấn (dài). Gốc là bài Bình Bán vui vẻ sảng khoái, nhưng khi phát triển thành Bình Bán Chấn thì trở thành đĩnh đạc, nghiêm trang. Bài này phức tạp, khúc mắc, ít được dùng trên sân khấu.
Cổ Bản Vắn: Câu ngắn gọn, dồn dập, nhưng không nhấn mạnh như bài Phú Lục.
Xuân Tình Chấn: Vui tươi, lúc bình thường khi rộn rã, âm điệu vang, trong sáng, nồng nhiệt.
Tây Thi Vắn: Êm dịu, trong sáng, vui tươi, có tính tự sự, không gay gắt như Phú Lục. Bản này là bản dễ nhớ nhứt trong sáu bài Bắc. Bài này có 26 câu, 3 lớp (9, 13, 4).
Lưu Thủy Trường: Điệu nhạc nhàn hạ, khoan thai, phù hợp với cảnh trí thanh nhàn, non xanh nước biếc, cỏ hoa chim chóc. Lưu Thủy Trường là do Lưu Thủy Đoản phát triển, kéo dài ra. Một câu của “đoản” bằng hai câu của “trường”. Bài này có 4 lớp, 32 câu (8, 6, 12, 6).
Phú Lục Chấn: Sôi nổi, rộn rã, khẩn trương, khác với bài Lưu Thủy Trường có tính thiên nhiên. Bài này có xuất xứ từ bài Phú Lục ở Huế. Khi mới vào Nam Bộ được cải lương hóa thành bài Phú Lục Vắn (17 câu, nhịp 1), sau phát triển thành bài Phúc Lục của nhạc tài tử (34 câu nhịp 4). Bài này rất nghiêm chỉnh cân đối, câu đối câu, nhịp đối nhịp, có 4 lớp (8, 8, 8, 10).
Bình Bán Chấn: Phát triển từ bài Bình Bán, đến Bình Bán Vắn, rồi đến bài Bình Bán Chấn (dài). Gốc là bài Bình Bán vui vẻ sảng khoái, nhưng khi phát triển thành Bình Bán Chấn thì trở thành đĩnh đạc, nghiêm trang. Bài này phức tạp, khúc mắc, ít được dùng trên sân khấu.
Cổ Bản Vắn: Câu ngắn gọn, dồn dập, nhưng không nhấn mạnh như bài Phú Lục.
Xuân Tình Chấn: Vui tươi, lúc bình thường khi rộn rã, âm điệu vang, trong sáng, nồng nhiệt.
Tây Thi Vắn: Êm dịu, trong sáng, vui tươi, có tính tự sự, không gay gắt như Phú Lục. Bản này là bản dễ nhớ nhứt trong sáu bài Bắc. Bài này có 26 câu, 3 lớp (9, 13, 4).
Re: 20 Bài Bản Tổ
Bảy Bài :
Xàng Xê: Hùng tráng uy nghi nhưng dịu dàng, êm ái.
Ngũ Đối Thượng: Có tính uy nghi, nghiêm trang của kẻ trên đối với người dưới.
Ngũ Đối Hạ: Còn gọi tắt là bài Hạ, uy nghi, nghiêm trang, man mác, thanh thản.
Long Ngâm: Rồng xuống, tượng trưng Âm khí. Bài này giống như bài Hạ, ít thấy dùng trên sân khấu cải lương.
Long Đăng: Rồng lên, tượng trưng Dương khí. Giống bài Hạ, nhưng tiết tấu khỏe, ít nghiêm trang.
Vạn Giá: Vạn vật sinh thành đều có giá trị.
Tiểu Khúc: Nhỏ ngắn đều có định luật.
Xàng Xê: Hùng tráng uy nghi nhưng dịu dàng, êm ái.
Ngũ Đối Thượng: Có tính uy nghi, nghiêm trang của kẻ trên đối với người dưới.
Ngũ Đối Hạ: Còn gọi tắt là bài Hạ, uy nghi, nghiêm trang, man mác, thanh thản.
Long Ngâm: Rồng xuống, tượng trưng Âm khí. Bài này giống như bài Hạ, ít thấy dùng trên sân khấu cải lương.
Long Đăng: Rồng lên, tượng trưng Dương khí. Giống bài Hạ, nhưng tiết tấu khỏe, ít nghiêm trang.
Vạn Giá: Vạn vật sinh thành đều có giá trị.
Tiểu Khúc: Nhỏ ngắn đều có định luật.
Re: 20 Bài Bản Tổ
BỐN OÁN
Tứ Đại Oán: Điệu nhạc thất vọng, bi thiết, oán hờn giống bài Văn Thiên Tường, nhưng hơi hướng có phần cổ và chơn chất hơn. Hai lớp Xang vắn thường hay được dùng.
Phụng Cầu: Như Tứ Đại Oán, nhưng hơi dựng hơn
Giang Nam Cửu Khúc: Trầm hơn Tứ Đại Oán, chậm rãi.
Phụng Hoàng: Như Phụng Cầu.
Tứ Đại Oán: Điệu nhạc thất vọng, bi thiết, oán hờn giống bài Văn Thiên Tường, nhưng hơi hướng có phần cổ và chơn chất hơn. Hai lớp Xang vắn thường hay được dùng.
Phụng Cầu: Như Tứ Đại Oán, nhưng hơi dựng hơn
Giang Nam Cửu Khúc: Trầm hơn Tứ Đại Oán, chậm rãi.
Phụng Hoàng: Như Phụng Cầu.
Re: 20 Bài Bản Tổ
mọi ng có thể nghe hát mẫu các bài hát trên trang
http://www.namkyluctinh.org/a-amnhac/ntkhanh-HaiMuoiBaiTo.html
http://www.namkyluctinh.org/a-amnhac/ntkhanh-HaiMuoiBaiTo.html
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|